lundi 9 novembre 2015

Văn học nghệ thuật với vấn đề đạo đức xã hội

QĐND - Chủ nhật, 09/11/2014 | 18:46 GMT+7
QĐND - Mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật với đạo đức xã hội là mối quan hệ mang tính bản chất, biện chứng. Đó là mối quan hệ thẩm mỹ giữa văn học nghệ thuật với hiện thực, nó vừa mang tính chủ quan của người văn nghệ sĩ vừa tuân theo những đòi hỏi nghiêm ngặt của lý luận phản ánh và quy luật sáng tạo. Đó là một quá trình vừa tác động, vừa nuôi dưỡng vừa gợi mở lẫn nhau. Văn học nghệ thuật không đồng nhất với đạo đức; nhưng thống nhất rất cao trong mục tiêu kiến tạo đạo đức làm cho con người trở nên người hơn. Vì vậy quan niệm truyền thống đạo đức là hồn cốt của văn chương, nghệ thuật vẫn còn nguyên giá trị.
Nói quan hệ giữa văn học nghệ thuật và đạo đức xã hội mang tính bản chất vì chức năng cao quý của văn học nghệ thuật là hướng thiện. Toàn bộ cuộc sống của con người từ hành vi, ứng xử, quan hệ xã hội đến thế giới nội tâm tinh tế và sâu thẳm đều là đối tượng “hiểu biết, khám phá, sáng tạo” của văn nghệ sĩ. Nghệ sĩ thâm nhập vào thế giới rộng lớn đó với khát vọng xây dựng hình tượng nghệ thuật sống động, có sức khái quát cao về một kiểu người, một cách sống, bày ra cả một bức tranh xã hội “thực hơn cả hiện thực”. Mọi thao tác nghệ thuật có thể muôn hình muôn vẻ, mọi cảm hứng có thể diễn ra theo nhiều cung bậc, nhưng tất cả đều nhằm chuyển tải một thông điệp xã hội của người nghệ sĩ trước biết bao vấn đề đang đặt ra, trong đó đạo đức xã hội là một trong những vấn đề quan trọng nhất.
Đạo đức xã hội là một phạm trù lịch sử, mỗi tầng lớp, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc đều hình thành những quy tắc, những chuẩn mực thành văn hoặc bất thành văn về hành vi, ứng xử, quan hệ giữa các thành viên. Những quy ước đó hình thành một hệ giá trị, có tính ổn định tương đối và sẽ thay đổi cùng với sự thay đổi chung của xã hội và thời cuộc. Nhưng dù thay đổi đến đâu, cuộc sống vẫn giữ lại những hạt nhân cơ bản nhất. Đó là tình yêu thương con người, trọng danh dự, trọng tình nghĩa, yêu nước, dám hy sinh vì nghĩa lớn. Nói gọn là chủ nghĩa nhân văn. Đó là sợi dây tinh thần kết nối từ đời này qua đời khác, tạo thành truyền thống, bản sắc văn hóa Việt Nam.
Các nghệ sĩ biểu diễn trong lễ diễu binh, diễu hành tại Lễ kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng 5-2014. Ảnh: Minh Huệ.
Ở đâu và lúc nào thì yêu cầu xây dựng đạo đức cũng là yêu cầu mang tính sống còn của con người, của xã hội. Khi các giá trị chân, thiện, mỹ trở thành một lẽ sống thì đạo đức trở thành một động lực, thôi thúc con người vươn tới những gì tốt đẹp nhất. Câu thơ Tố Hữu: “Có gì đẹp trên đời hơn thế/ Người với người sống để yêu nhau” là mơ ước tột đỉnh về giá trị đời sống, là cái khát khao vươn tới của mỗi một con người. Nó là yêu cầu tối thiểu đồng thời là mục tiêu tối đa đối với một con người, một xã hội.
Vì đạo đức là lẽ sống, là khát vọng, là những chuẩn mực của những mối quan hệ giữa con người với con người, con người với thiên nhiên, nên nó rất gần với triết học. Vì vậy, các nhà tư tưởng đồng thời cũng là những nhà đạo đức học. Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, đã có nhiều học thuyết, tư tưởng đề cập đến số phận con người, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của con người muốn được giải tỏa những bế tắc trong cuộc sống, giải thoát khỏi những hạn chế ràng buộc của tự nhiên, xã hội và của bản thân con người. Đó chính là những tư tưởng nhân văn, nhân đạo được thể hiện ở những mức độ, trình độ khác nhau. Nhưng những tư tưởng nhân văn, nhân đạo ấy thường chỉ dừng lại ở ước mơ, ảo tưởng, chỉ là sự phản ánh những nguyện vọng của con người về một tương lai, về những mối quan hệ giữa người với người tốt đẹp hơn. Điều này có thể thấy trong khá nhiều học thuyết, kể cả các tôn giáo.
Tuy nhiên chỉ có học thuyết nào mang tính cách mạng và khoa học mới có thể biến những nguyện vọng, ước mơ chân chính thành hiện thực.
Từ giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác là ngọn cờ tập hợp hàng triệu trái tim con người vì trước hết chủ nghĩa Mác là lý tưởng mang tính nhân văn cao cả, nó đã vạch ra con đường đi đến xóa bỏ áp bức bóc lột, bất công trên Trái đất, thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa bằng chế độ xã hội tốt đẹp hơn theo những quy luật phát triển khách quan của xã hội. Mác đã gọi học thuyết của mình là “Chủ nghĩa nhân văn hiện thực”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa những giá trị văn hóa vĩnh cửu của nhân loại, thể hiện được một chủ nghĩa nhân văn cao cả đáp ứng những yêu cầu, nguyện vọng cháy bỏng và sâu xa của dân tộc và nhân loại. Và cả cuộc đời hoạt động của Người là một tấm gương, một biểu hiện tiêu biểu nhất cho chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.
Hát múa mừng Đảng, mừng đất nước đổi mới của các diễn viên Trường Đại học Văn hóa nghệ thuật Quân đội. Ảnh: Minh Trường
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh trước hết biểu hiện ở tấm lòng thương yêu con người, thương yêu nhân dân hết sức bao la, sâu sắc. Người đã khái quát và triết lý cuộc sống: "Nghĩ cho cùng mọi vấn đề là ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ, áp bức” với một nội dung mới, sâu sắc, toàn diện. Trước hết đó không phải là lòng thương hại của “bề trên” nhìn xuống, cũng không phải là sự động lòng trắc ẩn của người "đứng ngoài" trông vào mà là sự đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ. Là một người dân mất nước, Người đã nhận thức sâu sắc sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc thực dân, khát vọng cháy bỏng được giải phóng của dân tộc bị áp bức. Người đã từng trải qua và chứng kiến bao nhiêu cảnh đau thương, ngang trái, bất công.
Hồ Chí Minh đã thể hiện sự kết hợp lòng nhân ái vốn có trong truyền thống văn hóa Việt Nam với tư tưởng nhân nghĩa, nhân văn phương Đông, với tư tưởng "bác ái" giải phóng con người khỏi thần quyền và quân quyền của chủ nghĩa nhân văn phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, để hình thành ở Người tư tưởng nhân văn cao cả, sâu sắc và hiện thực. Người viết "Chữ Người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước, rộng nữa là cả loài người. Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất những người khác thì phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Phải thực hành chữ “Bác ái”. "Lòng thương yêu của tôi với nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi”. Trong Di chúc, Người viết: Đầu tiên là vấn đề con người và "cuối cùng tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế". Một nội dung rất quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là phải chăm lo, sử dụng, phát động sức mạnh của con người, của nhân dân.
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn khoa học, hiện thực, cách mạng, giải phóng con người, xây dựng một xã hội không còn áp bức, bóc lột, bất công, một xã hội giàu mạnh, công bằng, văn minh, với những con người mới có phẩm chất cao đẹp, có trình độ phát triển toàn diện. Người chỉ rõ "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. "Con người xã hội chủ nghĩa là con người phát triển toàn diện, hoàn toàn đi đến không có chủ nghĩa cá nhân”. Người còn nói: "Người ta ai cũng có tính tốt và tính xấu. Mỗi con người đều có thiện và ác trong lòng. Tuy nhiên "thiện” và "ác” không phải tự nhiên mà có mà "phần lớn do giáo dục mà nên". Vì vậy, thái độ của người cách mạng là "phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi”. Nếu mỗi người đều tốt thì thành làng tốt, nước mạnh. Người là gốc của làng, của nước. Nếu mọi người đều cố gắng làm tốt làm đúng đời sống mới thì nhất định dân tộc sẽ phú cường".
Bác Hồ của chúng ta là một mẫu mực tuyệt đẹp về sự kết hợp giữa tư tưởng và đạo đức. Bác khẳng định “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ đó. Người hết sức coi trọng việc tuyên truyền lý luận cách mạng đồng thời Người đặt lên hàng đầu việc giáo dục đạo đức cách mạng cho toàn Đảng, toàn dân. Người yêu cầu nêu cao đạo đức cách mạng phải gắn liền với chống chủ nghĩa cá nhân. Bác là bậc hiền triết Phương Đông, nhà thực hành đạo đức nổi tiếng nhất trong số những người nổi tiếng. Bác đề cao biện pháp tu thân, tự tu dưỡng, tự rèn luyện. Bác hết sức coi trọng việc giáo dục nêu gương, một phương pháp giáo dục thâm thúy mà cụ thể, thanh khiết mà gần gũi, sâu sắc mà hiệu quả nhất. Nhật ký trong tù của Bác là một tác phẩm tiêu biểu, kết tinh, tỏa sáng nhân cách cao đẹp, đạo đức sáng ngời của Bác. Đó là "nhân, nghĩa, trí, dũng" của người cách mạng hết lòng vì Tổ quốc, vì nhân dân. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã được triển khai sâu rộng, nghiêm túc. Đó không chỉ là một cuộc vận động đạo đức, mà thực chất là một cuộc vận động chính trị vô cùng quan trọng không những liên quan đến nhân cách, phẩm giá của từng con người, mà còn có ý nghĩa to lớn đến sự lành mạnh xã hội và tồn vong của dân tộc. Tình cảm là ở đó mà sức mạnh cũng là ở đó. Điều tôi muốn nói ở đây, hôm nay là học tập đã khó, mà làm theo càng khó hơn. Mà làm theo mới là cái quyết định. Đó là bước chuyển hóa quan trọng nhất biến nhận thức, tư tưởng thành lối sống cụ thể hằng ngày.
Trong các hoạt động tinh thần, văn học nghệ thuật có sức mạnh chinh phục, cảm hóa con người, nâng đỡ và nuôi dưỡng con người không gì thay thế được. Cuộc sống không ngừng chứng minh rằng, bảo tồn và phát huy nhân cách, hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội là một cuộc đấu tranh gay gắt và dai dẳng chống lại các áp lực phi nhân tính. Đó là cuộc đấu tranh không phân tuyến, hằng ngày hằng giờ diễn ra ngay trong từng con người, từng gia đình, từng cộng đồng mà nội dung cơ bản không bao giờ cũ là sự xung đột giữa cái thật và cái giả, cái tốt và cái xấu, cái đúng và cái sai, cái cao thượng và cái thấp hèn. Văn học nghệ thuật tham gia vào cuộc đấu tranh đó trên cả hai phương diện, vừa khẳng định vừa phản biện, vừa nâng đỡ vừa thanh lọc, vừa khoan dung vừa nghiêm khắc. Nó giúp người ta nhận ra rằng, hoàn thiện là biết mình chưa hoàn thiện. Nó buộc con người thường xuyên phải đối diện với chính mình, lặng lẽ tự soi chiếu, tự đối thoại, tự điều chỉnh. Nó thiết lập tòa án lương tâm trong mỗi một con người, buộc anh phải tự suy xét, tự kiểm nghiệm, tự phán xử; nó truy đuổi đến từng ngõ ngách, làm cho không ai chạy trốn khỏi chính mình. Bằng những hình tượng sống động, bằng xương bằng thịt, văn học nghệ thuật chuyển tải khát vọng thẩm mỹ và tình yêu con người, mang theo lẽ phải và tình thương, mang theo sức sống và hơi ấm đến công chúng. Nó là dòng suối bền bỉ mát lành, là tiếng nói thầm tin cậy làm tăng thêm tố chất tự đề kháng, tự chế ngự, tự vượt, tự thắng cho mỗi một con người. Và như vậy, văn nghệ sĩ chính là người tiếp năng lượng cho đời sống. Những tác phẩm đầy trách nhiệm với xã hội như vậy, mang ánh sáng của chữ Tâm và tài năng nghệ sĩ như vậy sẽ trở thành ký ức, sống lâu bền trong mỗi con người, mặt khác nó tạo thành dư luận xã hội, một thứ luật lệ không thành văn nhưng có khả năng cảnh báo, lên án, cô lập, kiểm soát mọi hành vi vô đạo đức. Dù xã hội có phát triển đến đâu, pháp luật cũng không đủ để điều chỉnh mọi hành vi và các mối quan hệ của con người. Có những hành vi xét về luật pháp thì không vi phạm, nhưng về mặt đạo đức thì rất cần phê phán, lên án. Chẳng hạn như thói vô cảm. Thấy bất công không dám lên tiếng, thấy bất hạnh không muốn sẻ chia. Thấy oan ức không dám bảo vệ; việc nào đụng chạm đến mình thì la lối, lấy oán trả ân, việc của người khác thì lạnh lùng quay mặt. Đó là lối sống thu mình lại, “sống chết mặc bay”, chỉ chăm lo cho chính bản thân mình, một biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ đáng ghét. Truyền thống quý báu của dân tộc ta xưa nay đã lấy lệ làng bổ sung cho phép nước, lấy yêu ghét bổ sung cho đúng sai, lấy tình nghĩa để làm nên mọi sự cố kết. Văn học nghệ thuật không phải là một mớ thuyết giảng đạo đức mà là cả một thế giới thấm đẫm tình người, có khả năng đánh thức, lay động nhân tính, gây nên những xúc động thẩm mỹ, đeo bám, ám ảnh, thôi thúc con người tự hoàn thiện không ngừng. Như vậy, đạo đức, nói rộng ra là văn hóa đã trở thành một sức mạnh mềm, thành một thứ đức trị bổ sung cho pháp trị.
Trong mấy chục năm qua, văn học nghệ thuật nước ta chủ động, tự giác tham gia vào hành trình rộng lớn của dân tộc, khơi dậy truyền thống yêu nước, tình đoàn kết keo sơn, lòng dũng cảm, ý chí bất khuất, “thà hy sinh tất cả quyết không chịu làm nô lệ”, như Bác Hồ đã nói. Nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật tiêu biểu đã trở thành thứ lương thực tinh thần cho nhân dân ta trong cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và còn nguyên sức sống cho đến ngày hôm nay. Tinh hoa bao giờ cũng hiếm. Với đầy đủ sự khiêm tốn vẫn có thể khẳng định tinh hoa văn học nghệ thuật cách mạng; kháng chiến và trong sự nghiệp Đổi mới của ta không hiếm lắm đâu, thời gian đã và đang xác nhận điều đó. Đạo lý là như vậy. Nếu dân tộc mất độc lập, tự do thì phẩm giá con người bị tước đoạt, nói gì đến dân chủ, tự do, ấm no, hạnh phúc? Cho nên văn học nghệ thuật tham gia giành độc lập, tự do là tham gia vào việc rửa nỗi nhục mất nước, trả lại nhân phẩm cho con người, danh dự cho Tổ quốc. Và ngày nay, văn học nghệ thuật nước ta đang tham gia sự nghiệp to lớn chưa từng có là đưa một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, thành một nước giàu mạnh sánh vai cùng các nước tiên tiến, biến khát vọng muôn đời của nhân dân ta về một đất nước thịnh vượng, mọi người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc thành hiện thực. Như vậy có nhân văn không? Có đạo lý không? Đánh giá nền văn học nghệ thuật cách mạng của chúng ta phải trên tầm nhìn đó, và đặt nó trong bối cảnh lịch sử, cụ thể. Nếu chỉ đơn thuần đứng ở góc nhìn hôm nay để nhận định, phê phán rồi gán ghép tùy tiện thì khó thuyết phục, nếu không muốn nói là thiên kiến, thiếu công bằng.
Văn học nghệ thuật từ sau Đổi mới đến nay có một sự phát triển rất quan trọng. Đó là trở lại sự hài hòa. Trong chiến tranh, do nhiệm vụ, yêu cầu có tính thời đoạn, ta nhấn mạnh mặt này, mặt khác là bình thường và cần thiết. Ngày nay cuộc sống đã thay đổi, văn học nghệ thuật có thể tiếp cận, phản ánh cuộc sống từ trên những bình diện lớn của hiện thực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, đến những vấn đề riêng tư thầm kín ủ sâu trong lòng người. Chúng ta không chủ trương lấy nội dung bù cho nghệ thuật, mà phải là nội dung một trăm phần trăm, nghệ thuật một trăm phần trăm như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói. Nghị quyết của Đảng nhiều lần khẳng định tôn trọng quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và đang tạo ra cơ chế cho quyền tự do sáng tạo ấy. Nhờ có sự định hướng đó, văn học nghệ thuật đã có một mùa gặt mới, trong đó chủ đề về đạo đức xã hội là lĩnh vực thu được nhiều thành tựu nổi bật. Văn học, nghệ thuật đã lên tiếng khá sớm, phê phán, cảnh báo các tệ nạn xã hội, thói hách dịch, cửa quyền, xa dân, tham nhũng, tham lam hám lợi, đặt đồng tiền lên trên hết... Đó là căn bệnh hiểm nghèo “tự diễn biến”, là nguy cơ của mọi nguy cơ.
Xây dựng đất nước là sự xây dựng toàn diện, trong đó xây dựng con người là quan trọng nhất và cũng là khó khăn nhất. Bác Hồ nói “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” chính là nhấn mạnh tầm quan trọng và khó khăn của việc xây dựng con người. Xây dựng con người là xây dựng cả về phẩm chất và năng lực, lẽ sống và cách sống, lý trí và tâm hồn, thể lực và nhân cách, nghị lực và tình cảm, trách nhiệm và tình nghĩa. Đó là lĩnh vực vô cùng công phu và tinh tế, lâu dài và gian khổ. Có thể nói là cả một nghệ thuật. Nghị quyết 05 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII mà chúng ta vừa tổng kết và Nghị quyết 33 của Trung ương Khóa XI vừa mới ban hành “Xây dựng, phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước" đều đặt vấn đề xây dựng con người ở tầm chiến lược, là trung tâm của mọi trung tâm. Cách mạng, nói cho cùng là từ con người để trở về con người. Chúng ta nói tôn vinh con người không phải theo quan điểm tư sản tôn vinh con người cá nhân cực đoan mà là tôn vinh Con Người viết hoa, theo nghĩa đúng đắn nhất.
Vì con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội nên nó luôn luôn phát huy tính năng động chủ quan để tác động đến mọi lĩnh vực, nhưng đồng thời nó cũng chịu tác động, thậm chí áp lực từ nhiều lĩnh vực khác. Công nghiệp hóa và hiện đại hóa, cơ chế thị trường, mở cửa hội nhập, giữ vững chủ quyền quốc gia... tất cả là môi trường, là điều kiện để chúng ta xây dựng con người hôm nay. Đó là con người mới trong hiện thực, với biết bao nhiêu thuận lợi kèm theo bao nhiêu níu kéo, "Bước ba bước lại lùi một bước" như câu thơ của Cao Bá Quát. Khó khăn là như vậy. Hiện nay xã hội đang lo âu và lên tiếng mạnh mẽ về tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống, về lòng tin và nhân cách với biết bao nhiêu câu chuyện đau lòng, nhức nhối đang là cản trở lớn, thách thức lớn đến sự phát triển xã hội. Xây dựng con người, xây dựng văn hóa bao gồm cả xây và chống, là sự nghiệp của toàn Đảng toàn dân, nhưng vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức, trong đó có đội ngũ văn học nghệ thuật giữ vai trò quan trọng. Vì văn học nghệ thuật có lợi thế là lĩnh vực của tình cảm nên dễ thấm sâu vào lòng người. Đi vào lòng người là diệu kế như Nguyễn Trãi đã nói. Một khi lẽ phải và tình thương thấm sâu vào lòng người thì nó vừa có khả năng tăng tố chất đề kháng, vừa có khả năng chuyển hóa thành đạo đức nhân cách, lối sống. Đạo đức có rất nhiều loại, đạo đức cách mạng, đạo đức công dân, đạo đức cán bộ, đạo đức nghề nghiệp. Nhưng trước hết là đạo đức làm người. Phải làm một con người tử tế trước đã, phải sắm vai đó trước đã, sắm tốt, mới có thể sắm các vai khác. Quy luật là như thế. Đòi hỏi là như thế. Vì nó là cái gốc. Cái gốc là đạo đức làm người. Phải vun từ gốc và chống từ gốc. Tham gia vào câu chuyện này có rất nhiều yếu tố, gia đình, nhà trường, bạn bè, xã hội, trong đó tất nhiên có vai trò to lớn của văn học nghệ thuật. Để văn học nghệ thuật làm được chức năng cao quý của nó với con người với xã hội, trách nhiệm của văn nghệ sĩ rất nặng nề. Văn học nghệ thuật là lĩnh vực của tài năng, nhưng để nuôi dưỡng tài năng phát triển, phải đi vào đời sống. Đi vào đời sống để hiểu đời và hiểu người. Đi vào đời sống để cho khát vọng sáng tạo của người nghệ sĩ hòa nhịp với những nguyện vọng sâu xa cháy bỏng của nhân dân. Đi vào đời sống để nâng mình lên cho ngang tầm với những gì mà Tổ quốc, sự nghiệp và con người đang đòi hỏi.
Quy luật tiếp nhận các giá trị văn học nghệ thuật là không thể ra mệnh lệnh. Những gì được cấp giấy thông hành vào trái tim con người là phải hay, phải qua một quá trình sáng tạo công phu và sàng lọc càng công phu hơn nữa. Chúng ta biết rõ điều đó. Và chúng ta cũng biết rằng, cái hay luôn luôn là cái có ích, có khả năng trả lời những câu hỏi bức thiết của đời sống: Làm gì và làm như thế nào để góp phần làm trong lành bầu khí quyển đạo đức xã hội hiện nay? Tôi hoàn toàn tin tưởng đội ngũ văn nghệ sĩ đông đảo, giàu tâm huyết, giàu tài năng của chúng ta hoàn toàn có thể đem đến câu trả lời thuyết phục nhất.
LÊ KHẢ PHIÊU
Nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Chép lại từ báo Quân đội Nhân dân

lundi 7 septembre 2015

TIẾNG KÊU ĐAU ĐỚN CỦA NGƯỜI DA ĐỎ

Chép lại từ FB Ngô Mạnh Hùng.


Seatle (1786-1866) là thủ lĩnh các bộ lạc da đỏ Duwamish và Suquamish lúc đó sinh sống bên vùng đông nước Mỹ. Sau khi đã tạo nên Khu vực Washington năm 1853, chính phủ Washington "đề nghị" người da đỏ ký các hiệp định để mua đất của họ.
Người da đỏ biết là không thể nào từ chối được.
Dưới đây là bài diễn văn hùng hồn và đau đớn của ông Seattle, thủ lĩnh da đỏ, đọc trước thống đốc Isaac Stevens. Nhiều ý và căn dặn được nhắc đi nhắc lại, đọc lên thấy rất thấm thiết. Bài diễn văn này được coi là một bài học, một gia tài văn học thiêng liêng để đời và đã được dịch sang nhiều thứ tiếng.
"Làm sao các người có thể mua bán khung trời và hơi ấm của đất ?
Ý nghĩ đó đối với chúng tôi thật kỳ lạ. Thế nếu chúng tôi không sở hữu cái mát mẻ của không khí và cái lung linh của mặt nước, thì các người làm sao mà mua ?
Mỗi mẩu đất này đều thiêng liêng cho dân tộc chúng tôi.
Mỗi cái kim óng ánh của lá thông, mỗi bờ cát, mỗi mảnh sa mù trong khu rừng âm u, mỗi bờ suối, mỗi tiêng vo vo của côn trùng đều là thiêng liêng trong ký ức và từng trải của chúng tôi.
Nhựa chảy trong thân cây mang đầy kỷ niệm của người dân da đỏ.
Linh hồn những người da trắng đã quên xứ mình sinh ra khi đi vào giữa các vì sao. Linh hồn những người chết chúng tôi không bao giờ quên trái đất tuyệt vời này, vì trái đất là mẹ của người da đỏ. Chúng tôi là thành phần của đất và đất là thành phần của chúng tôi. Hoa thơm là em gái chúng tôi, con hươu, con ngựa, con đại bàng là anh em chúng tôi. Các đỉnh núi, các chất ngọt trong đồng ruộng, hơi ấm con ngựa nhỏ, và con người, tất cả đều cùng một gia đình.
Cho nên khi ông Sếp Lớn ở Hoa Thịnh Đốn cho người tới nói ông muốn mua đất của chúng tôi, thì ông đã đòi hỏi rất nhiều ở chúng tôi. Ông Sếp cho nói là ông sẽ dành một nơi để chúng tôi có thể sống thoải mái với nhau. Ông sẽ là cha chúng tôi và chúng tôi sẽ là con cái của ông. Chúng tôi cũng phải xét đề nghị mua đất của ông. Nhưng cái đó quả thật là rất khó. Bởi vì đất này thiêng liêng đối với chúng tôi.
Nước lung linh chảy trong các dòng suối và dòng sông không phải chỉ là nước mà còn là máu của tổ tiên chúng tôi. Nếu chúng tôi bán đất cho các ông, thì các ông phải nhớ đất là của thiêng và mỗi phản chiếu đầy mầu sắc của mặt nước trong dưới hồ luôn nhắc nhở những biến cố và kỷ niệm cúa dân tộc chúng tôi. Tiếng nước suối thì thầm là tiếng của người cha của cha tôi.
Các con sông là anh em chúng tôi, đã cho chúng tôi đỡ khát. Các dòng sông mang thuyền chèo và nuôi các con tôi. Nếu chúng tôi bán đất cho các ông, thì từ đây các ông phải nhớ, và phải dậy cho con các ông, là các giòng sông là anh em chúng tôi và cũng là anh em các ông, và các ông phải thân thương giòng sông như các ông thân thương huynh đệ các ông. Chúng tôi biết người da trắng không hiểu tập quán chúng tôi. Đối với họ, mảnh đất này cũng như mảnh đất kia, họ là người ngoại xứ ban đêm đến lấy của đất cái gì họ cần. Đất không phải là anh em họ, mà là kẻ thù, khi họ lấy được thì họ tiến nữa. Họ bỏ mồ mả của tổ tiên mà không trăn trở gì. Họ lấy đất của con cái mà không trăn trở gì. Mồ mả của tổ tiên và gia tài của con cái họ bị rơi vào quên lãng. Họ coi mẹ, đất đai, anh em, trời đất, như là đồ vật mua bán, cướp phá, bán đi như bán những con cừu, hay những hạt ngọc óng ánh. Lòng tham lam xui họ nghiến ngấu đất đai và chỉ còn để lại một cái sa mạc.
Không có nơi nào an bình trong các tỉnh của người da trắng. Không có chỗ nào để nghe tiếng lá cuộn mình trong mùa xuân, hay tiếng cọ sát của cánh những con bọ. Cũng có thể vì tôi là người man rợ nên tôi không hiểu. Những tiếng động đó hình như chỉ nhức tai họ. Sống làm chi nếu con người không nghe thấy tiếng kêu lẻ loi của con én hay tiếng trò chuyện tào lao của các con ếch trong cái ao ban đêm ?
Chắc tôi là người da đỏ nên tôi không hiểu. Người chúng tôi ưa tiếng gió êm ru trườn trên mặt hồ, ngay cả mùi của gió đã được nước mưa trưa nay rửa sạch, hay đã được lá thông đã cho thêm hương thơm.
Không khí rất trân quí cho người da đỏ, vì mọi sự đều chia nhau một hơi thở.
Súc vật, cây cối, con người. Đều chung với nhau một hơi thở.
Người da trắng hình như không để ý đến không khí họ thở. Như người phải để ra mấy ngày mới tắt thở, họ không biết mùi hôi thối. Nếu chúng tôi bán đất này cho các ông, các ông phải nhớ là không khí rất trân quý cho chúng tôi và nhớ là không khí chia sẻ hồn nó với những sinh vật nó nuôi sống. Cơn gió đã cho ông cha chúng ta hơi thở đầu cũng là cơn gió đã nhận ở ông cha chúng ta hơi thở cuối cùng. Nếu chúng tôi bán đất này cho các ông, các ông phải giữ riêng nó và coi nó là thiêng liêng, là nơi mà cả người da trắng các ông cũng được đến để hưởng làn gió đã được dịu lại với hương hoa của đồng nội. Chúng tôi phải xét đề nghị của ông. Nhưng nếu chúng tôi nhận lời, thì tôi cho các ông một điều kiện: người da trắng phải coi các sinh vật trên mảnh đất này như những anh em !
Tôi là người man rợ, tôi không biết cách sống khác!
Tôi đã thấy xác một ngàn con bò rừng thối rữa trên cánh đồng, bỏ lại khi người da trắng từ trên các chuyến tầu hỏa đi qua bắn chúng chết. Tôi là một người man rợ, tôi không hiểu tại sao con ngựa sắt phun khói của các ông lại quan trọng hơn những con bò rừng mà chúng tôi chỉ giết để sinh sống.
Con người là gì nếu không còn thú vật? Nếu tất cả thú vật đều mất hết, con người sẽ chết trong một tâm linh lẻ loi. Bởi vì cái gì đến cho thú vật rồi sẽ đến với con người. Mọi sự trên đời đều liên can với nhau.
Các ông phải dạy cho con cháu là đất chúng bước lên được tạo bởi tàn hương của tổ tiên. Dạy cho chúng biết tôn trọng đất, bảo chúng là đất được giầu có bởi đời sống của giòng giõi. Dạy cho con cái các ông những điều mà chúng tôi dạy cho con cái chúng tôi, là đất là người mẹ. Cái gì xẩy đến cho đất sẽ xẩy đến cho con cái của đất. Ai khạc nhổ lên đất là khạc nhổ lên chính mình !
Ít nhất chúng tôi cũng biết điều này: là đất không thuộc về người mà người thuộc về đất. Điều đó chúng tôi biết. Mọi điều đều liên đới với nhau như máu mủ trong một gia đình. Mọi sự đều liên đới với nhau.
Cái gì đến với đất sẽ đến với con cái của đất.
Không phải con người đã xây lên cái khung của cuộc đời. Người chỉ là một sợi dây. Cái gì người làm cho cái khung của cuộc đời là họ làm cho chính mình.
Dù người da trắng được thượng đế của họ đi cùng và nói chuyện như những người bạn, họ cũng không thể vượt qua được số mạng chung. Nói cho cùng, chúng ta và người da trắng có thể cũng là anh em. Để rồi xem sao. Có một điều chúng tôi biết, điều mà người da trắng có thể một ngày kia sẽ khám phá ra, là chúng ta có cùng một thượng đế. Có thể bây giờ các người cho là đã có được thượng đế của các người như các người muốn sở hữu đất đai của chúng tôi. Nhưng các người không làm được điều đó. Vì thượng đế là của mọi người và lòng từ bi dành cho người da trắng và cho người da đỏ đều như nhau. Đất là của quý của trời. Phá hại đất là mang nặng khinh khi với đấng tạo hóa đã sinh ra đất. Rồi người da trắng cũng sẽ bị tiêu diệt, có thể trước các bộ lạc khác. Làm lây trùng cái giường, các người đêm sẽ ngủ trong xú uế của chính mình.
Rồi khi chết các người sẽ huy hoàng với đầy sức mạnh của thượng đế đã đem các người đến vùng đất này, rồi vì một sứ mạng nào đó, đã giúp các người ngự trị vùng đất này và ngự trị dân da đỏ. Cái định mệnh đó là một bí hiểm cho chúng tôi, vì chúng tôi không hiểu khi tất cả những con bò rừng đã bị tàn sát, các con ngựa đã bị chế ngự, những góc bí mật của các khu rừng đã mang đầy hơi của những nhóm người, và các ngọn đồi đầy hoa đã bị tàn lụi bởi những người đến nói bi bô.
Thì rẫy rừng đâu? Đã biến mất. Và con đại bàng đâu? Đã biến mất.
Ngày tận cùng của sự sống, ngày bắt đầu của sự sống còn.".

samedi 13 juin 2015

Nhà học giả phải có một cái quê hương




Huỳnh Thúc Kháng
Nguồn: Thơ Văn Huỳnh Thúc Kháng (chọn lọc)
Nếu học giả mà không có quê hương, không biết quê hương mình là đâu, thì vô luận những kẻ không thành nghiệp, đã thành một người du thực không nhà, mà đến kẻ học thành, kiến văn tài xảo, không kém gì người ta, tột phẩm cũng tới địa vị làm mướn là hết. Vì thế nên nhà học giả nhất định phải có một cái quê hương mà sau cái học của mình mới có chỗ qui túc, khỏi bị cái nạn hoa kia không trái, lúa nọ không bông vậy.


“Đạo lý vẫn không có quê hương, mà nhà học giả phải có một cái quê hương”. (La science n’a pas de patrie, l’homme de science doit en avoir une). Đó là câu của ông Pasteur. Thật là một câu nói, không những có ý nghĩa sâu xa mà gồm cả lịch duyệt kinh nghiệm. Phàm chân lý ở trong vũ trụ là của chung cả loài người không riêng gì cho ai. Chân lý mà đã phát minh ra, thì không kỳ xưa nay, không hạn đông tây, ai mà chuyên đọc đạo lý, có lòng yêu trọng chân lý, phục tùng chân lý, thì cái chân lý đó, mình có thể nhận làm của mình, mà không có ai giành xé ngăn trở được. Chân lý là vật cần trong cõi tinh thần của loài người mà trời đất cung cấp chung cho cũng như nước như lửa, không ai choán riêng mà không cho người ta dùng đến được, nên nói rằng: “không quê hương”.
Đến như người học giả thì không thế. Tại sao? Một giống dầu tốt mà muốn gieo, trước phải có đất. Kiểu nhà dầu khéo mà muốn dựng, cần phải có nền. Quê hương của nhà học giả đó, tức là vùng đất và khoảng nền để gieo giống và dựng nhà vậy. Nếu học giả mà không có quê hương, không biết quê hương mình là đâu, thì vô luận những kẻ không thành nghiệp, đã thành một người du thực không nhà, mà đến kẻ học thành, kiến văn tài xảo, không kém gì người ta, tột phẩm cũng tới địa vị làm mướn là hết. Vì thế nên nhà học giả nhất định phải có một cái quê hương mà sau cái học của mình mới có chỗ qui túc, khỏi bị cái nạn hoa kia không trái, lúa nọ không bông vậy. Nay ta thử lấy lời của ông Pasteur mà xét về sự thực. Hiến pháp khởi đầu ở nước Anh mà người Nhật Bản học theo làm ra việc Duy tân, dân quyền xướng đầu từ nước Pháp, mà người Trung Hoa học theo, làm được công cuộc Cộng hòa.
Thế là hiến pháp, dân quyền, đạo lý là của chung mà người Nhật, người Tàu có một cái quê hương, vì có cái quê hương, nên cái học đó mới có chỗ mà phát triển được. Còn ngoài ra như Triều Tiên, Phi Luật Tân, nói về các nhà học giả, không phải là tuyệt nhiên không có người, tài cao trí rộng không kém gì người Âu, người Mỹ, mà chỉ vì một cái cớ không có quê hương mà thành ra phải sa vào cái cảnh địa mai một. Gương kia trước mắt, không cần phải đến nói dài.
Học giả nước ta thì thế nào? Nước ta ngày xưa, ông bà ta học theo văn hóa Tàu, tuy trong sự học vẫn có điều hay điều dở, không phải là hoàn thiện. Song nói về người học, thì rõ ràng chắc chắn, ai cũng tự phân và tự biết có một cái quê hương. Nghĩa là học theo Tàu mà mục đích đi học là làm việc mình, làm việc cho nước nhà mình, chớ tuyệt nhiên không có một người nào (dẫu cho đứa trẻ lên mười tuổi mới cầm vở đi học cũng vậy) ôm một cái tư tưởng hèn mạt, hy vọng nhỏ nhen mà nói rằng: “Học để làm thuê cho người Tàu”. Thế là ông bà ta học theo đạo lý Tàu mà tự có một cái quê hương trên ngàn năm nay, thoát ly được cái phạm vi của người Tàu mà dựng thành một nước tự chủ, cái công của nhà học giả, thật là đứng đầu, mà không ai chối cãi được vậy. Dâu biển đổi dời, cuộc đời mỗi ngày một khác, tình thế trong nước đã không như trước, mà sự học cũng đổi ra mới, tức là ngày trước học Tàu, mà bây giờ học Tây (Tây học không phải là không hay, không tốt, cũng gọi là chân lý không quê hương, thì Tây học cũng là một vật quí mà ta có thể nhận làm của ta được.) Song cứ như hiện học giới ở nước ta thì giống như những người học không có quê hương nhất định. Nói về sự học thì bác nọ kỹ sư, không kia bác sĩ, người này thương mãi tốt nghiệp, người nọ có luật học văn bằng, cho đến cao đẳng, trung đẳng v.v. . Công phu không phải không dày, học vấn không phải là không có chỗ sở đắc, mà chỉ vì cái cớ “không quê hương” đó mà đành phải chui đầu vào cái xưởng công thương, để làm công cho người Tây, người Tàu. Còn một hạng mà người mình cho là sang nhất, đã có thần thế lại có nhiều tiền, nhiều bổng đủ khoe khoang cái sự học với bà con, thì hạng viết thuê chép mướn ở các sở công đã là tột bậc.
Thử hỏi quê hương của các nhà học giả nước ta ở đâu? Người có lương tâm ít nhiều, thì làm thinh mà không trả lời, còn kẻ đã bị cái văn minh xác thịt nó ám ảnh thì giương mày trợn mắt, công nhiên chỉ vào cái xưởng buôn, các nhà máy cùng các công sở… [Kiểm duyệt bỏ]…
Ôi Thuyền kia không lái, thả ra giữa biển không biết nơi nào là bờ, người đi không nhà, chạy vào trong rừng mà không rõ ngõ nào ra đường cái!!!
Trạng huống học giả nước ta ngày nay đâu có khác thế. Vậy nhân lời ông Pasteur nói trên mà phụ thêm đôi điều, họa may những nhà đã tự nhận là học giả đêm nằm ngẫm nghĩ mà tự hỏi, “Quê hương mình ở đâu”? thì mới mong rằng sự học của mình có chỗ quí túc vậy.
(Tiếng Dân 17-4-1929)
Chương Thâu, Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng (Chọn lọc), NXB Đà Nẵng 1989, tr. 181-184.

Luận về chánh học cùng tà thuyết (năm 1924) của Ngô Đức Kế



Chép lại từ http://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADn_v%E1%BB%81_ch%C3%A1nh_h%E1%BB%8Dc_c%C3%B9ng_t%C3%A0_thuy%E1%BA%BFt



Bài báo này đăng trong Hữu Thanh tạp chí số 21 ra ngày 1 tháng 9 năm 1924, để trả lời cho bài diễn thuyết ca ngợi truyện Kiều của Phạm Quỳnh, đăng lại trên tạp chí Nam Phong số 86. Là một phần của Vụ án truyện Kiều.

Vận nước thịnh hay suy, quan-hệ tại đâu? — Tại nhân tâm thế đạo. Nhân tâm thế đạo xấu hay tốt, cỗi gốc tại đâu? — Tại học-thuyết tà hay chính.
Rộng xét năm châu, trải xem lịch-sử, dọc ngang mấy vạn dặm, trên dưới mấy nghìn năm, từ đông đến tây, từ xưa đến nay, hễ nước nào khi vận nước cường tất là khi ấy trong nước chính-học sáng rệt, nước nào khi vận nước suy đốn, tất là khi ấy trong nước tà-thuyết lưu hành; chính-học sáng rệt thì thế-đạo nhân-tâm phải tốt, mà vận nước cũng theo chính học nổi lên, tà-thuyết lưu hành thì nhân-tâm thế đạo phải hư mà vận nước cũng theo tà thuyết mà đắm mất.
Khi chính-học đang quang minh, thì tà thuyết không có chỗ nào xen vào được; tà-thuyết lưu-hành trong nước như gió lướt cỏ, như nước vỡ đê; không ai ngăn cản, thì thường vào lúc chính-học đã suy đồi, mà nhất là lúc việc đời biến cải, việc nước đổi thay, quốc thị mơ màng, nhân tâm bở-ngở, nền cũ đã đổ, nhà mới chưa thành bậc hiền nhân quân-tử, thì kín tiếng dấu tăm, nằm co ở nơi thảo dã, mà bọn bỉ-phu tục tử thì khua chuông gõ mõ, nhảy-nhót ở trên vũ đài; lúc ấy chính là lúc tà thuyết thừa cơ mà lấn lướt chính-học.
Thầy thuốc ta nói rằng: khi trong mình mà chính khí hư nhược, thì ngoại tà nhân dịp mà xâm vào, làm cho người phát bệnh, lần lần do biểu mà nhập lý, thì thành bệnh khó trị. Thầy phù thủy nói rằng, khi trong mình mà chính thần không bảo hộ, thì quỷ tà nhân dịp mà ám vào, cũng làm cho người phát bệnh, lần lần rồi người hóa ra ma. Tà thuyết cũng như thế: Vì chính học suy, cho nên tà thuyết thịnh, tà thuyết đã thịnh thì chính học phải đến tiêu vong, hai đàng ấy tiêu trưởng tồn vong dù đất nào thời nào cũng không sai một sợi tóc.
Vả lại cái tính loài người, theo điều phải thì khó khăn như trèo ngược núi, theo điều xằng thì dễ dàng như nước chảy xuôi. Vậy cho nên lúc vận nước đã suy, thì trăm nghìn người phò trì chính học mà không đủ, một người xướng lên tà thuyết mà hãm hại nhân tâm thế đạo có thừa; gớm ghê thay! cái tài thuyết làm sa đắm lòng người không biết đến đâu mà nói! Một người xướng, mười người họa, cho đến trăm, nghìn người họa, lần lần phong bành cả nước; lấy trái làm phải, lấy xầu làm đẹp, lấy thối làm thơm, mà thế đạo nhân tâm hiện ra một tấn xú-kịch: nước không thành nước, người không thành người!... Thầy Mạnh Tử sinh ở đời Chiến-Quốc, vì lúc ấy cái học-thuyết họ Dương họ Mặc thịnh hành trong thiên hạ, mà thầy phải lo cự họ Dương họ Mặc, giáng minh cái học Chu, Khổng để chữa đổi lòng người. Đời sau khen ngợi cái công thầy Mạnh tịch-tà-thuyết, chính-nhân-tâm không thua gì công vua Vũ tháo nước lụt, đuổi muông dữ, để cho thiên hạ được an cư lạc-nghiệp. Vì sao mà nói thế? — Là vì cái hại tà thuyết mê đắm lòng người có kém cái hại nước lụt trôi người, muông dữ ăn người đâu, mà lại thậm hơn nữa.
Nước Việt-Nam ta vài nghìn năm nay, học chữ Hán, theo đạo Khổng, Hán-văn tức là Quốc-văn. Khổng học tức là Quốc học: tuy rằng giang sơn biến cải, triều đại đổi thay có mấy mươi lần, cơn hiểm nguy biến loạn đã nhiều, mà chính học một giòng vẫn không sa sút, nhân tâm, phong tục, đạo đức, chính trị, đều bởi đó mà ra: nước nhà, giống nòi, cũng nhờ đó mà vững được. Từ khi Âu trào tràn khắp thế giới nước ta có cuộc bảo hộ, mà cái lối học « chi, hồ, giả, dã » mới đổi sang « a, b, c, d ». Đem Âu học mà đổi Hán học, không phải là có hại, song thiên hạ việc gì cũng thế, phá cái cũ thì dễ mà chóng, lập cái mới thì khó mà lâu. Âu học chưa vin được ngọn ngành, mà Hán học đã dứt cả cội rễ; những người chân chính Âu-học có kiến-thức tư-tưởng, thì còn trông mong ao ước ở đâu chưa thấy, mà những chân nho chính-sĩ Hán-học thì đã quá nửa mòn-mỏi điêu linh.
Chính-phủ thì chỉ có thể chăm-lo tác-thành lớp nhân tài trong các học đường mà thôi, còn ngoài ra miễn là không phạm đến chính-trị thì tha hồ ngôn-luận: Nhà in đã sẵn, sở báo cũng nhiều; khi ấy bọn văn sĩ giả dối mới ứng thời xuất hiện. Những người học thức kiến văn chưa được một nắm, nhân cách giá trị chẳng đáng là bao, mới lom-lem những học thuyết ông Mạnh (Montesquieu), ông Lư (Rousseau) bập bẹ những cách ngôn họ Trang, họ Liệt, thì đã nghiễm nhiên tự lập thành một đấng văn-hào, tự-xưng khai-hóa quốc dân, mà không ngó lại tự mình đã khai hóa hay chưa; thôi thì bài diễn văn chất đống, sách du ký đầy thùng, thôi thì tán xằn tán nhảm, nói bậy, nói càn, không còn có nghĩa lý chính đáng chi nữa.
Thương hại thay! trong nước kẻ học thì ít, kẻ không học thì nhiều; học mà có kiến thức thì ít, học mà không có kiến thức thì nhiều: những văn chương nhảm nhí, ngôn-luận càn xiên ấy đã tràn khắp cả nước làm cho phải chăng điên đảo, đen trắng lẫn phèo, rồi ra lấy dốt làm thông, tôn nịnh làm thánh: đá vũ-phu mà cho là ngọc, nàng Vô-Diệm mà cho là sắc khuynh-thành; đạo đức càng ngày càng suy-đồi, nhân-tâm càng ngày càng theo về đường hư-ngụy. Cái xã-hội Âu chẳng ra Âu, Hán chẳng ra Hán này, há không phải bởi cái nhân-vật giả-dối Âu chẳng ra Âu, Hán chẳng ra Hán ấy, múa bút khua lưỡi mà gây nên ư? Tác giả có phải cố-ý bài bác người đời để mua hờn chác oán làm chi; thiệt là trông ra gai mắt, nghĩ đến đau lòng, muốn nói cũng chẳng nói hết đâu, hãy dẫn ra sau này một chuyện:
« Kim vân Kiều » là sách gì? Chưa nói đến sự tích thiệt không, chưa kể văn chương hay dở, chỉ nhắc đến cái tên sách thì nghe đã không thể nào ngửi được; vì sao thế? Phàm bộ truyện nào, dầu trong có bao nhiêu nhân vật mặc lòng, chỉ là một người làm chủ nhân: sự tích là sự tích một người chủ nhân ấy, thì tên sách cũng theo đó mà gọi. Nay truyện ấy là sự tích cô Vương-thúy Kiều, mà tên sách đặt ba người: một người thì lấy chữ họ mà mất tên, hai người thì lấy chữ tên mà mất họ, thì thiệt là đốt vô cùng. Cái tên ấy, chắc là tự nhà khắn bản in đặt ra, chứ ông Nguyễn Du chắc không đặt tên dốt như thế? Dù cái tên ấy là nguyên bản của Tàu, là nguyên bản của Tàu thì càng đủ biết rằng truyện ấy đặt ra bởi một anh Tàu dốt nào đó mà thôi. Nói đến sự tích, thì phàm chuyện tiểu-thuyết đều là lấy một chút sự thực trong lịch-sử, hoặc là tự ý nhà văn-sĩ bịa ra, chứ bất tất có chuyện thiệt. Chuyện « Thanh tâm tài nhân » (tức là truyện Kiều) là một bộ tiểu thuyết tầm thường không có giá trị gì. Xem bộ « Tình sử » của Tàu, biết bao nhiêu chuyện li-kỳ hơn nữa. Và dù sự tích ấy mà có thiệt đi nữa, thì một đôi thiếu niên nam nữ, đêm thanh người vắng, trèo tường trổ ngõ, ước hội chuyện trò với nhau, đối với phong hóa đạo-đức là việc bất chính, mở đầu quyển sách như thế, dù sau có tô vẽ hiếu nghĩa gì đâu nữa, cũng không đủ làm gương tốt cho đời.
Nói về văn chương quốc âm của ông Nguyễn Du, thì vẫn là hay thiệt, song cái lối văn vận, ngâm nga ngợi hát, chỉ là một lối trong đạo văn chương. Văn tuy hay, mà truyện là truyện phong tình, thì có vẻ ai dâm sầu oán, đạo dục tăng bi tám chữ ấy không tránh đàng nào cho khỏi. Cái bản ý ông Nguyễn Du làm truyện « Đoạn-Trường tân-thanh » ấy (tức là truyện Kiều) chỉ là mượn văn chương mà ngụ chút tâm sự mình; cho nên ông đã có câu: « Lời quê góp nhặt nên bài, mua vui cũng được một vài trống canh ». Xem thế thì biết truyện ấy chỉ là một thứ văn chương ngâm vịnh chơi bời, để lúc thanh nhàn mà đọc đôi câu cho tiêu khiển, chứ không phải một thứ văn chương chính đại theo đường chính học, mà đem ra dạy đời được đâu.
Ngày trước, các cụ tiền bối thường cấm con em xem truyện Kiều: trong xã hội, ai hay đọc Kiều nghêu ngao, thì cho là kẻ đàng điếm. Ý các cụ nghĩ rằng: các gả thiếu niên chí khí chưa định, tình dục đang nồng, xem truyện thì mê, rồi sinh cái tư tưởng trộm ngọc cắp hương, khêu hoa ghẹo nguyệt, say đắm trong trời tình bể ái, mà mềm nhũn cái gan lòng sắt đá, bỏ mất cái chí nguyện cao xa. Cái phép gia đình giáo dục của các cụ như thế, thiệt phải lắm. Vì cái tính trộm ngọc cắp hương, say hoa đắm nguyệt, người sinh ra không dạy cũng biết, vẫn cấm mà không được, huống chi lại thấy trong sách trong truyện, ngâm nga ngợi hát, thành ra một việc rất phong nhã rất hào hoa.
Thế mà ngày nay « đức » văn-sĩ giả dối ta biểu dương truyện Kiều lên, để khai hóa cho quốc dân, đem truyện Kiều làm sách « quốc văn giáo khoa » (sách dạy) làm sách « sư phạm giảng nghĩa » (sách thầy). Văn-sĩ thường nói rằng: « học Hán văn là học mượn, học Pháp văn là học mượn; học quốc văn mới là học nhà: truyện Kiều tức là sách nhà đó ».
Ôi! Học làm quốc văn thì học thế nào? — Bài này chưa có thể nói kỹ được: song có phải là học nghĩa-lý, danh từ, về các khoa học, luân lý, cách-trí, chính-trị, cùng là phép luân lý, phép ký-sự, để xem các sách về ngôn luận của ta cho hiểu, để đem tư tưởng sở đắc trong Pháp-học mà phát ra làm trước thuật ngôn luận của ta cho thông không? hay là học cái lỗi thơ phú ca ngâm, nắn một chữ cho hay, dùng những điển cho lạ, rung đùi lắc gối như lối học ngày xưa đã vì thế mà người ngu nước yếu nay lại đổi ra chữ nôm? hay là những cái danh từ tài tử giai nhân, ba sinh duyên nợ, gương thề quạt ước, liễu dựa hoa kề, rày ước mai ao, thầm yêu trộm nhớ, xưa nay không ai dạy mà không mấy ai không thuộc lòng thuộc lòng, trong các bức hoa tình không câu nào không Kiều, mà nay còn phải dạy nữa cho thêm hay thêm giỏi, thế là học quốc văn ư? Một anh giả dối lóp lép, đứng đầu sùng bái Kiều, mà một bọn u mê hờ hững gào hơi rán sức để họa theo, còn một lớp người chỉ nghe lóm nhìn mồm thì về tay tán thưởng, khiến người phải bịt tai bưng mũi, phải nhức đầu long óc vì những tiếng to « quốc văn.... Kim-Vân-Kiề... Nguyễn Du... »
Cứ như ý họ, thì nước ta ở thế kỷ này, mà muốn chế cái tể thuốc « thập hoàn đại bổ » cho dân cho nước, thì không chi bằng quyển sách « trăm năm trong cõi người ta ». Cứ như lời họ, thì từ lúc Gia-long lại nay, nước Nam ta có cái của rất quí báu, mà người mình ngu dại không biết là quí, nay nhờ đức văn-sĩ có cái đại-nhãn đại-thức mà phát-minh cái của báu ấy cho dân cho nước được nhờ: kể cái công phát kiến không kém gì ông Kha-Luân-Bố (Colomb) tìm được Mỹ-châu vậy!
Vậy cho nên, trong nước ngày nay, nào là bình phẩm văn chương Kiều, nào là phê-bình Kiều, nào là chú-thích Kiều, nào là thơ vịnh Kiều, cho đến hát tuồng Kiều, diễn kịch Kiều, chớp ảnh Kiều, trong nhà ngoài đường, trên trời dưới đất đâu đâu cũng Kiều. Cứ xem hiện trạng ấy, thì nước Việt-Nam ngày nay gọi tên là Kim-Vân-Kiều quốc, nòi giống Việt-Nam ta mà gọi là đại Kim-Vân-Kiều tộc cũng đúng lắm chứ không sai!
Xem trong bộ « Tùy viên thi ngoại » có nhà làm bài thơ vịnh Quan-công, dùng sự tích Vân-trường bỉnh chúc (là lúc Quan-công cầm đuốc suốt đêm đứng hầu Nhị Tẩu) mà ông tùy viên chê rằng đem sự tích tiểu thuyết mà làm vào thơ, là người vô học. Bộ « Tam quốc Chí » bộ tiểu thuyết nhất danh tiếng, sự tích Quan công ai chẳng tin thật mà kính thờ; thế mà người ta còn cười đem tích tiểu thuyết làm thơ. Truyện « Tham tâm tài nhân » là tiểu thuyết hèn mạt bên Tàu, mà nay nước Việt-Nam tôn phụng làm chính kinh chính sử: thiệt là rước lấy một cái đại sỉ nhục!
Thậm chí sùng bái truyện Kiều mà nói rằng: « truyện Kiều là quốc hoa, là quốc hồn, là quốc túy của Việt-Nam »: — Không biết có còn quốc gì không? — Xưng tụng ông Nguyễn Du mà nói rằng: Nguyễn Du đổ máu làm mực, làm vẻ vang cho giống nòi ». Ông Nguyễn Du dịch Kiều từ đời Gia-long; thế thì từ Gia-long về trước, chưa có truyện Kiều, thì nước ta không quốc-hoa, không quốc-túy, không quốc-hồn; thế thì cái văn-trí vũ-công mấy trào Đinh, Lý, Trần, Lê, sáng chói rực rở đó, đều là ở đây đem đến cho bọn « học thuê viết mướn » ấy mà thôi; thế thì những bậc đại hào kiệt, đại huấn nghiệp, cứu dân giúp nước, tái tạo giang-sơn, mở mang bờ cõi cho nước ta ngày xưa, không ai làm được vẻ vang cho nòi giống, không ai đáng kỷ niệm cả; mà chỉ ông văn-sĩ làm sách « trăm năm trong cõi » là làm vẻ vang giống nòi, là đáng kỷ niệm mà thôi? Giống nòi ta vẻ vang ra thế nào?!...
Thậm nữa lại nói rằng « truyện Kiều quan hệ văn hóa Việt-Nam, truyện Kiều quan hệ quốc-văn Việt-Nam nếu không có truyện Kiều thì tình trạng dân tộc Việt-Nam chưa biết đến thế nào »: thiệt là con oanh học nói, xằng xiên bậy bạ, giồ dại điên cuồng, tà thuyết vu dân đến thế là cực! Mà có ai cho là tà-thuyết đâu; nay đã nhà treo một bức, cửa yết một tờ, kèn trống rước vào, hương hoa cúng lễ rồi: « truyện Kiều là văn hóa Việt-Nam; truyện Kiều là sách học quốc-văn », in vào trong óc, thấm vào trong lồng, tỉ như ngoại tà đã nhập đến ngũ tạng, quỉ-tà đã ám mất linh hồn, thì dù lang-y hay giỏi đến đâu, pháp sư cao tay đến đâu, tưởng cũng không cứu được nữa.
Trịnh Khải ở đời Đường, vì tiếng hay thơ, mà làm quan Tể-tướng (cụ lớn); anh ta lấy làm ái ngại mà tự nói rằng: « Trịnh-Khải mà làm Tể-Tướng thì cuộc đời chẳng nói cũng biết rồi », Ôi! than ôi! Kim vân Kiều mà cai trị nước Việt Nam, thì xã hội Việt Nam không nói cũng biết rồi!...

Bình Ngô Đại Cáo

Chép lại từ http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=1359&Itemid=5 In

Bình Ngô đại cáo là bài cáo của Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt.
Về mặt văn chương, tác phẩm được người đương thời, ngay cả hậu thế, đều rất thán phục và coi là thiên cổ hùng văn. Có nhiều ý kiến cho rằng: đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của Việt Nam (sau bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt và trước bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Hồ Chí Minh).
Tác giả bài Đại Cáo này là khai quốc công thần của nhà Hậu Lê, Nguyễn Trãi. Ông tuy không tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu, nhưng cũng theo phò Bình định Vương Lê Lợi từ khi nghĩa quân Lam Sơn còn ở thế yếu trước sự đàn áp của quân Minh, đã vạch ra nhiều kế sách giúp cho nghĩa quân Lam Sơn thu phục nhân tâm và giành được ưu thế trên chiến trường. Tương truyền, ông là người nghĩ ra kế sách viết dòng chữ “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” (Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi thần) trên lá cây, tạo ra như một điềm trời, khẳng định về yếu tố "thiên mệnh" cho Lê Lợi, làm lòng người nhanh chóng hướng về nghĩa quân Lam Sơn.
Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ đã phong thưởng cho Nguyễn Trãi là bậc cao trọng nhất bên văn quan, ông được ban quốc tính (tức được mang họ vua, họ Lê), tước Hầu (Quan Phục Hầu) chỉ kém tước Công một bậc. Trên thực tế ông vừa là cố vấn, vừa là quân sư, nhà chính trị, tài kiêm văn võ rất thân với vua.

Nguyễn Trãi
Bình Ngô Đại Cáo
Bản dịch của Ngô Tất Tố

Thay trời hành hóa, hoàng thượng chiếu rằng,
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Vưà rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Miịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Dánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
*
*  *

Nguyễn Trãi
Bình Ngô Đại Cáo
Bản diễn Nôm


Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết.
Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư mạc tiên khứ bạo.
Duy, ngã Đại Việt chi quốc,
Thật vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực kí thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Nhi Triệu Tiết hảo đại dĩ xúc vong.
Toa Đô kí cầm ư Hàm Tử quan,
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.
Kê chư vãng cổ,
Quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà.
Chí sử nhân tâm chi oán bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Ác đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư họa khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn kỉ hồ dục tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu kiết di.
Khai kim trường tái mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,
Thái minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kì sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kì sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
Châu lí chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kì ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kì ác.
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.
Dư:
Phấn tích Lam Sơn,
Thê thân hoang dã.
Niệm thế thù khởi khả cộng đái,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên,
Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lí.
Đồ hồi chi chí
Ngộ mị bất vong.
Đương nghĩa kì sơ khởi chi thì,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ:
Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt thần tinh.
Bôn tẩu tiên hậu giả kí phạp kì nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả kì trợ.
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.
Nhiên kì:
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.
Phẫn hung đồ chi vị diệt,
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
Yết can vi kì, manh lệ chi đồ tứ tập;
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;
Dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kì.
Tốt năng:
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
Trà Lân chi trúc phá hôi phi.
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Quân thanh dĩ chi đại chấn.
Trần Trí Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Lý An Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh kí vị ngã hữu;
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lí;
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, kí kiêu kì thủ;
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
Vương Thông lí loạn nhi phần giả ích phần,
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Chấp nhất kỉ chi kiến dĩ giá họa ư tha nhân,
Tham nhất thì chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ.
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,
Nản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.
Dư tiền kí tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kì phong,
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kì thực.
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã;
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã An chi sơn.
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.
Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
Bỉ tự đảo qua tương công.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,
Kì dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
Viên tuyển tì hưu chi sĩ,
Thân mệnh trảo nha chi thần.
Ẩm tượng nhi hà thủy càn,
Ma đao nhi sơn thạch khuyết.
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
Quyết hội nghĩ ư băng đê,
Chấn cương phong ư cảo diệp.
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
Thượng thư Hoàng Phúc diện phọc dĩ tựu cầm.
Cương thi tái Lượng Giang Lượng Sơn chi đồ,
Chiến huyết xích Xương Giang Bình Than chi thủy.
Phong vân vị chi biến sắc,
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Kì Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
Kì Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng vị ngã quân sở bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
Lãnh Câu chi huyết chử phiếu, giang thủy vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
Lưỡng lộ cứu binh kí bất toàn chủng nhi câu bại,
Các thành cùng khấu diệc tướng giải giáp dĩ xuất hàng.
Tặc thủ thành cầm, bỉ kí trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, kí độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ kí uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.
Phi duy mưu kế chi cực kì thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quan.
Càn khôn kí bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt kí hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu
Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dã
Ô hô!
Nhất nhung đại định, hất thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,
Hàm sử văn tri.
Nguyễn Trãi

jeudi 11 juin 2015

ĐỌC LẠI BÀI THƠ "CON CÁ, CHỘT NƯA"

Chép lại từ FB Ngô Mạnh Hùng.




Bài thơ “Con cá, chột nưa” của nhà thơ Tố Hữu ra đời trong những ngày cách mạng còn trứng nước, người chiến sĩ cách mạng bị cầm tù trong nhà lao đế quốc, vật lộn, dằng co giữa cái đói và danh dự, lý tưởng của người cộng sản. Cuộc đấu tranh ấy âm thầm, quyết liệt giữa 2 phần trong một con người, giữa tiếng gọi của bản năng tầm thường và lý tưởng cách mạng cao cả.
"Năm sáu ngày mệt xỉu
Thuốc làm khuây mấy điếu
Vài ba hớp nước trong
Suy nghĩ chuyện bao đồng
Vẫn không ngoài chuyện đói.
Đầu sân, canh bốc khói
Chén cá nức mùi thơm
Lên họa với mùi cơm
Sao mà như cám dỗ!
Muốn ngủ mà không ngủ
Cái bụng cứ nằn nì:
“Ăn đi thôi, ăn đi”
Chết làm chi cho khổ!”
Nghe hắn thầm quyến rũ
Tôi đỏ mặt bừng tai:
“Im đi cái giọng mày
Tao thà cam chịu chết!”
Hắn nằm im đỡ mệt
Rồi tha thiết van lơn:
“Đời mới hai mươi xuân
Chết làm chi cho khổ!”
Hắn nói to nói nhỏ
Kể lể chuyện đê hèn
Tôi vẫn cứ nằm yên
Hắn liền thay chiến thuật:
“Thôi thì thôi: cứ vật
Nhưng phải ráng cầm hơi
Theo với bạn với đời
Cho đến ngày kết qủa.
Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết ai ngờ?
Thế vẫn tròn danh dự
Không can chi mà sợ
Có hôi miệng hôi mồm
Còn có nước khi hôm
Uống vô là sạch hết!”
Lần này tôi thú thiệt:
Lời hắn cũng hay hay
Lý sự cũng đủ đầy
Nghe ra chừng phải quá!
Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết, ai ngờ
Thế vẫn tròn danh dự
Nhưng mà tôi lưỡng lự
Suy nghĩ rồi lắc đầu
Đành không ai biết đâu
Vẫn không làm thế được!
Từ khi chân dấn bước
Trên con đường đấu tranh
Tôi sẵn có trong mình
Đôi mắt thần: chủ nghĩa.
Đã đứng trong đoàn thể
Bềnh vực lợi quyền chung
Sống chết có nhau cùng
Không được xa hàng ngũ
Không thể gì quyến rũ
Mua bán được lương tâm
Danh dự của riêng thân
Là của chung đồng chí
Phải giữ gìn tỉ mỉ
Như tròng mắt con ngươi
Đến cạn máu tàn hơi
Không xa rời kỉ luật
Phải trải lòng chân thật
Không một nét quanh co
Không một bóng lờ mờ
Không một nhăn ám muội!
Bụng nghe chừng biết tội
Từ đó hết nằn nì
Không dám thở than chi
Và tôi cười đắc thắng."
====
Trong nhà tù của địch những năm đầu cách mạng, các tù nhân cộng sản đã tuyệt thực để phản đối chế độ hà khắc của nhà tù thực dân. Kẻ địch ra sức mua chuộc bằng cách đem đến cơm ngon, canh ngọt, kêu gọi bản năng sống, từ đó xóa tan lý tưởng cách mạng của người chiến sỹ cách mạng. Bài thơ đã diễn tả cuộc đấu tranh hết sức trần tục mà cũng vô cùng cao cả một cách chân thực, có sức cảm hóa lòng người.
Qua một tuần tuyệt thực, cái đói đã gào thét trong cơ thể hai mươi trai tráng, cái đói thống trị mọi suy nghĩ: “Suy nghĩ chuyện bao đồng, Vẫn không ngoài chuyện đói”. Đói, trong khi bên cạnh lại có cơm nóng, cá thơm: "Đầu sân, canh bốc khói/Chén cá nức mùi thơm/Lên họa với mùi cơm/sao mà như cám dỗ!"

Danh dự của người cộng sản là hàng đầu, nhưng “cái bụng”- phần “con” bản năng lại năn nỉ, tìm mọi cách “ biện bạch”: "Ăn đi thôi, ăn đi/ Chết làm chi cho khổ!", cao hơn, thâm độc hơn, cái bụng còn vin vào lý tưởng cách mạng để lung lạc con tim và khói óc cộng sản: “Thôi thì thôi: cứ vật/ Nhưng phải ráng cầm hơi/Theo với bạn với đời/Cho đến ngày kết quả."
Cuộc "đấu tranh" quyết liệt giữa cái bụng đói với ý chí cách mạng ở đây được miêu tả hết sức sinh động: "Ăn đi vài con cá/ Năm bảy cái chột nưa/ Có ai biết ai ngờ?/ Thế vẫn tròn danh dự.". Thậm chí, cái bụng còn “vạch đường”gian dối: "Có hôi miệng hôi mồm/ Còn có nước khi hôm/ Uống vô là sạch hết!”...

Trong hoàn cảnh ấy - giữa sự sống và cái chết - thì cái lý tưởng cách mạng đã có sự dao động, lung lay, có sự thỏa hiệp với bản năng sống: "Lần này tôi thú thiệt:/ Lời hắn cũng hay hay/ Lý sự cũng đủ đầy/ Nghe ra chừng phải quá!/ Ăn đi vài con cá/ Dăm bảy cái chột nưa/ Có ai biết, ai ngờ/ Thế vẫn tròn danh dự.". Dễ hiểu, giữa sự sống và cái chết, người ta dễ thỏa hiệp, và đầu hàng cũng không phải chuyện xa xôi.

Nhưng cuối cùng, lý trí, lý tưởng cách mạng, danh dự của người cộng sản đã chiến thắng. Cái đói đã bị áp đảo, cũng có nghĩa người chiến sĩ cách mạng đã không đầu hàng trước kẻ thù: "Đành không ai biết đâu/
Vẫn không làm thế được! ...Không thể gì quyến rũ/Mua bán được lương tâm!".
Và người chiến sĩ ấy khẳng khái: "Phải trải lòng chân thật/Không một nét quanh co/Không một bóng lờ mờ/ Không một nhăn ám muội!".

Ở đây, đã khẳng định bản lĩnh và danh dự của người chiến sĩ, không gì có thể khuất phục: “Từ khi chân dấn bước/ Trên con đường đấu tranh/ Tôi sẵn có trong mình/ Đôi mắt thần: chủ nghĩa/ Đã đứng trong đoàn thể/ Bênh vực lợi quyền chung/ Sống chết có nhau cùng/ Không được xa hàng ngũ.".
Và cuối cùng thì bản năng tầm thường đã bị khuất phục. Mệnh lệnh của lý trí đã thắng.

Hơn 70 năm sau ngày bài thơ ra đời, đến nay chúng ta hàng ngày vẫn phải đối mặt, vật lộn với những con cá, chột nưa, phải đối mặt với chính mình, đối mặt giữa lòng tham, lợi ích cá nhân với lợi ích chung, với lý tưởng cách mạng, vì dân, vì nước; hàng ngày phải đấu tranh giữa lòng tham và lý trí, nhân cách của con người – con người cộng sản. Phẩm chất cách mạng, nhân cách con người được tôi luyện từ cái nhỏ như con cá, chột nưa. Không rèn luyện, tu dưỡng, từ con cá nhỏ, cái chột nưa ít giá trị, sẽ tiến đến những thứ to lớn và rất to lớn, “ quen mùi”, trở thành những con sâu đục khoét, với lòng tham vô đáy, cái đầu và con tim vô cảm, ngày nào đó sẽ làm rỗng cả một hệ thống, nếu không được chữa trị kịp thời.
Bài thơ là một bài học làm người rất lớn, đặc biệt trong thời điểm hiện nay. Cuộc vật lộn, giằng co trong một con người là điều không tránh khỏi, nhưng chiến thắng được cái thấp hèn mới thể hiện được khí phách của Con người Cộng sản, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, thời điểm nào.
===
P/s: Những ngày qua, những nhà dân chủ rởm lại rộ lên phong trào tuyệt thực, vẫn là bài la làng quá cũ, vì họ "đấu tranh" là bởi chính miếng ăn, làm sao có đủ dũng khí như những người cộng sản đấu tranh cho dân tộc.

Ảnh: "bài thơ" của một "tuyệt thực viên dân chủ" do Trương Duy Nhất khoe khoang để cổ vũ đồng bọn. Rất ..thơ, học đòi!!!