Huỳnh
Thúc Kháng
Nguồn: Thơ Văn Huỳnh Thúc Kháng (chọn lọc)
Nguồn: Thơ Văn Huỳnh Thúc Kháng (chọn lọc)
Nếu học giả mà không có quê hương, không biết quê
hương mình là đâu, thì vô luận những kẻ không thành nghiệp, đã thành một người
du thực không nhà, mà đến kẻ học thành, kiến văn tài xảo, không kém gì người
ta, tột phẩm cũng tới địa vị làm mướn là hết. Vì thế nên nhà học giả nhất định
phải có một cái quê hương mà sau cái học của mình mới có chỗ qui túc, khỏi bị
cái nạn hoa kia không trái, lúa nọ không bông vậy.
“Đạo lý vẫn không có quê
hương, mà nhà học giả phải có một cái quê hương”. (La science n’a pas de patrie,
l’homme de science doit en avoir une). Đó là câu của ông Pasteur. Thật là một
câu nói, không những có ý nghĩa sâu xa mà gồm cả lịch duyệt kinh nghiệm. Phàm
chân lý ở trong vũ trụ là của chung cả loài người không riêng gì cho ai. Chân
lý mà đã phát minh ra, thì không kỳ xưa nay, không hạn đông tây, ai mà chuyên đọc
đạo lý, có lòng yêu trọng chân lý, phục tùng chân lý, thì cái chân lý đó, mình
có thể nhận làm của mình, mà không có ai giành xé ngăn trở được. Chân lý là vật
cần trong cõi tinh thần của loài người mà trời đất cung cấp chung cho cũng như
nước như lửa, không ai choán riêng mà không cho người ta dùng đến được, nên nói
rằng: “không quê hương”.
Đến như người học giả thì không
thế. Tại sao? Một giống dầu tốt mà muốn gieo, trước phải có đất. Kiểu nhà dầu
khéo mà muốn dựng, cần phải có nền. Quê hương của nhà học giả đó, tức là vùng đất
và khoảng nền để gieo giống và dựng nhà vậy. Nếu học giả mà không có quê hương,
không biết quê hương mình là đâu, thì vô luận những kẻ không thành nghiệp, đã
thành một người du thực không nhà, mà đến kẻ học thành, kiến văn tài xảo, không
kém gì người ta, tột phẩm cũng tới địa vị làm mướn là hết. Vì thế nên nhà học
giả nhất định phải có một cái quê hương mà sau cái học của mình mới có chỗ qui
túc, khỏi bị cái nạn hoa kia không trái, lúa nọ không bông vậy. Nay ta thử lấy
lời của ông Pasteur mà xét về sự thực. Hiến pháp khởi đầu ở nước Anh mà người
Nhật Bản học theo làm ra việc Duy tân, dân quyền xướng đầu từ nước Pháp, mà người
Trung Hoa học theo, làm được công cuộc Cộng hòa.
Thế là hiến pháp, dân quyền, đạo
lý là của chung mà người Nhật, người Tàu có một cái quê hương, vì có cái quê
hương, nên cái học đó mới có chỗ mà phát triển được. Còn ngoài ra như Triều
Tiên, Phi Luật Tân, nói về các nhà học giả, không phải là tuyệt nhiên không có
người, tài cao trí rộng không kém gì người Âu, người Mỹ, mà chỉ vì một cái cớ
không có quê hương mà thành ra phải sa vào cái cảnh địa mai một. Gương kia trước
mắt, không cần phải đến nói dài.
Học giả nước ta thì thế nào? Nước
ta ngày xưa, ông bà ta học theo văn hóa Tàu, tuy trong sự học vẫn có điều hay
điều dở, không phải là hoàn thiện. Song nói về người học, thì rõ ràng chắc chắn,
ai cũng tự phân và tự biết có một cái quê hương. Nghĩa là học theo Tàu mà mục
đích đi học là làm việc mình, làm việc cho nước nhà mình, chớ tuyệt nhiên không
có một người nào (dẫu cho đứa trẻ lên mười tuổi mới cầm vở đi học cũng vậy) ôm
một cái tư tưởng hèn mạt, hy vọng nhỏ nhen mà nói rằng: “Học để làm thuê cho
người Tàu”. Thế là ông bà ta học theo đạo lý Tàu mà tự có một cái quê hương
trên ngàn năm nay, thoát ly được cái phạm vi của người Tàu mà dựng thành một nước
tự chủ, cái công của nhà học giả, thật là đứng đầu, mà không ai chối cãi được vậy.
Dâu biển đổi dời, cuộc đời mỗi ngày một khác, tình thế trong nước đã không như
trước, mà sự học cũng đổi ra mới, tức là ngày trước học Tàu, mà bây giờ học Tây
(Tây học không phải là không hay, không tốt, cũng gọi là chân lý không quê
hương, thì Tây học cũng là một vật quí mà ta có thể nhận làm của ta được.) Song
cứ như hiện học giới ở nước ta thì giống như những người học không có quê hương
nhất định. Nói về sự học thì bác nọ kỹ sư, không kia bác sĩ, người này thương
mãi tốt nghiệp, người nọ có luật học văn bằng, cho đến cao đẳng, trung đẳng
v.v. . Công phu không phải không dày, học vấn không phải là không có chỗ sở đắc,
mà chỉ vì cái cớ “không quê hương” đó mà đành phải chui đầu vào cái xưởng công
thương, để làm công cho người Tây, người Tàu. Còn một hạng mà người mình cho là
sang nhất, đã có thần thế lại có nhiều tiền, nhiều bổng đủ khoe khoang cái sự học
với bà con, thì hạng viết thuê chép mướn ở các sở công đã là tột bậc.
Thử hỏi quê hương của các nhà học giả nước ta ở đâu?
Người có lương tâm ít nhiều, thì làm thinh mà không trả lời, còn kẻ đã bị cái
văn minh xác thịt nó ám ảnh thì giương mày trợn mắt, công nhiên chỉ vào cái xưởng
buôn, các nhà máy cùng các công sở… [Kiểm duyệt bỏ]…
Ôi Thuyền kia không lái, thả ra giữa biển không biết
nơi nào là bờ, người đi không nhà, chạy vào trong rừng mà không rõ ngõ nào ra
đường cái!!!
Trạng huống học giả nước ta ngày nay đâu có khác thế.
Vậy nhân lời ông Pasteur nói trên mà phụ thêm đôi điều, họa may những nhà đã tự
nhận là học giả đêm nằm ngẫm nghĩ mà tự hỏi, “Quê hương mình ở đâu”? thì mới
mong rằng sự học của mình có chỗ quí túc vậy.
(Tiếng Dân 17-4-1929)
Chương Thâu, Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng (Chọn lọc), NXB Đà Nẵng 1989, tr. 181-184.
Chương Thâu, Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng (Chọn lọc), NXB Đà Nẵng 1989, tr. 181-184.

Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire